Dạy và học luật ở trời Tây

Phiên bản ngắn hơn của bài viết này được đăng tải lần đầu trên Báo Xuân Quý Mão của Thời báo kinh tế Sài Gòn và bản online tại đây.

Dạy

  • 250 sinh viên?
  • Đúng rồi!
  • Ý thầy là có 250 sinh viên đăng kí môn sở hữu trí tuệ (SHTT) mà em sắp tới sẽ dạy?
  • Chính xác là 247 bạn. Em không biết luật SHTT là một trong những môn tự chọn phổ biến nhất ở đây, chỉ sau luật truyền thông và luật y tế à?

Đó là cuộc đối thoại giữa thầy M – người giảng dạy lâu năm môn luật SHTT ở đại học Durham, và tôi (cùng với một bạn khác) – người sắp thay thế thầy trong năm học đó. Sau câu trả lời khai sáng cho kẻ mới chân ướt chân ráo bắt tay vào công việc, thầy ung dung đi làm việc khác, để lại tôi với không ít lo lắng.

Đó là phiên bản một tôi năm năm về trước với công việc đầu tiên của mình. Tôi nhận được lời mời làm việc từ Durham chỉ năm ngày trước buổi bảo vệ luận án tiến sĩ và có mặt ở thành phố cổ kính này chỉ hai tuần sau đó.

Thành phố Durham, nơi tôi bén duyên với công việc giảng dạy.

Ước mơ được một lần xách balo du lịch châu Âu một đến hai tháng hậu tiến sĩ đã không thành hiện thực. Nhưng tôi không vì thế mà than vãn vì mình đã có được công việc đầu tiên chỉ với một lần phỏng vấn, sau gần một năm nộp khoảng trên dưới 10 hồ sơ cho các trường đại học.

Một tuần trước buổi giảng đầu tiên đã khiến tôi vô cùng hồi hộp. Chỉ nghĩ về điều đó cũng khiến tim tôi đập nhanh. Chỉ là một bài giảng 50 phút mở đầu cho môn học, giới thiệu những khái niệm cơ bản của luật SHTT và cấu trúc của học phần, nhưng không hiểu sao tôi đã mất gần 16 giờ cho việc chuẩn bị. Tôi đã luyện tập rất nhiều lần để đảm bảo mình không bị quá giờ hay nội dung quá ít so với thời lượng. Tôi đã cẩn thận đến mức đi cùng hai bạn đồng nghiệp mới đến một giảng đường tương tự để đảm bảo là chúng tôi biết cách sử dụng thiết bị. Vậy mà, như để trêu ngươi sự lo lắng của tôi, buổi giảng chính thức đã có trục trặc về máy chiếu! Phù, tôi đã nhanh chóng gọi bộ phận kĩ thuật sang sửa chữa.

Thời gian đầu đi dạy, tôi gần như không có ngày nghỉ. Lúc nào tôi cũng thấy mình bù đầu với công việc, soạn bài và đọc sách. Tôi làm việc từ sáng đến tối, trong giấc ngủ cũng chập chờn kiến thức. Tuần này vừa xong lại chuẩn bị cho tuần tiếp theo. Vì luật ở Anh dựa trên án lệ, nên việc nhớ và nắm rõ các vụ việc liên quan là điều bắt buộc. Chưa kể, có rất nhiều vụ việc được giải quyết ở cấp châu lục, được tòa án liên minh châu Âu lập luận theo một hướng khác nên tôi cần phải hiểu rõ sự khác biệt trong cách áp dụng của hai trường phái Anh và châu Âu lục địa để truyền đạt lại kiến thức cho các bạn sinh viên. Những khó khăn ban đầu cũng qua đi, rồi tôi cũng quen việc, quen trường, và quen cả với những lời phàn nàn của người học.

Sau này kể cả khi tôi đã có kinh nghiệm với công việc giảng dạy và đứng lớp nhiều lần, tâm trạng hồi hộp trước mỗi buổi giảng luôn còn đó. Cho dù đó là đề tài mới hay đề tài tôi đã nắm rõ, việc chuẩn bị bao giờ cũng chiếm thời gian đáng kể để đảm bảo người học được truyền tải kiến thức cập nhật nhất. Khi chuyển sang làm việc ở Oxford, ở bậc thạc sĩ tôi không còn dạy luật SHTT theo phong cách truyền thống (quyền tác giả – nhãn hiệu – sáng chế) mà được gợi ý dạy theo chuyên đề, chẳng hạn như “Các vấn đề liên quan đến miễn trừ SHTT cho vaccine Covid-19”, hay “Các vấn đề pháp lý liên quan đến sáng chế tạo ra trong quá trình làm việc”. Tôi còn được giao phụ trách một lớp luật so sánh về quyền tác giả. Với lợi thế là một người đến từ châu Á, tôi đã được một thầy đồng nghiệp gợi ý dạy một buổi về “Sáng tạo ở các nước châu Á”. Bài giảng đã được các bạn sinh viên đón chào vì nó cung cấp một góc nhìn hoàn toàn khác so với hệ thống sáng tạo ở châu Âu hay Mỹ mà các bạn thường được học. Tận dụng nền tảng cá nhân, tôi cũng cố gắng đem kiến thức về luật SHTT Việt Nam hay những vụ việc ở nước nhà vào bài giảng. Và tôi đã mỉm cười khi lần đầu tiên thấy “Việt Nam” được nhắc đến trong một vài bài thi như một trường hợp so sánh điển hình.

Các giảng viên ở Anh có quyền tự do học thuật (right to academic freedom) khá lớn, cho phép các thầy cô tự do giảng dạy và thảo luận, tự do thực hiện nghiên cứu và công bố kết quả, tự do bày tỏ ý kiến ​​của mình về tổ chức hoặc hệ thống mà họ làm việc, tự do khỏi sự kiểm duyệt của thể chế và tự do tham gia vào các cơ quan học thuật. Nói một cách đơn giản, quyền này cho phép thầy cô giáo đặt câu hỏi và kiểm tra kiến thức của sinh viên, đưa ra ý tưởng mới và các ý kiến ​​gây tranh cãi hoặc không phổ biến mà bản thân họ không sợ bị mất việc hoặc mất các đặc quyền mà họ có thể có tại cơ sở đào tạo.

Tôi có quyền thiết kế nội dung giảng dạy, dạy cái gì và dạy như thế nào. Nói như vậy không có nghĩa là các trường sẽ thả nổi chất lượng mà họ có cơ chế kiểm tra cân bằng thông qua nhiều hình thức. Chẳng hạn như đề xuất môn học phải nộp lên cho khoa hay nhà trường nhận xét. Nhưng đa phần các đồng nghiệp ngoài bộ môn chỉ phản biện về cấu trúc và hình thức đánh giá chứ rất ít người can thiệp về nội dung vì điều này nằm ngoài chuyên môn của họ. Sau đó, đề xuất sẽ được gởi cho một giám định viên bên ngoài nhà trường (external examiner) để có góp ý chuyên môn. Giám định viên bên ngoài là một vị trí được bổ nhiệm chính thức, có nhiệm kì 5 năm. Đây là một phần của quy trình đảm bảo chất lượng của trường Đại học ở Anh. Các giám định viên đa phần là học giả từ các cơ sở giáo dục đại học khác, nhưng cũng có thể đến từ ngành công nghiệp hoặc doanh nghiệp, tùy thuộc vào khóa học.

Nhiệm vụ chính của giám định viên là cung cấp một cái nhìn khách quan và độc lập về môn học, đảm bảo hệ thống đánh giá và phân loại sinh viên công bằng và nhất quán. Mỗi lần chấm điểm, máy tính sẽ chọn ngẫu nhiên một số bài làm đại diện cho từng phổ điểm (giỏi, khá, trung bình, rớt) để gởi cho các giám định viên xem xét. Giám định viên cũng như nhà trường không có quyền can thiệp vào đánh giá của giảng viên, mà chỉ có thể đảm bảo rằng việc đánh giá là công bằng và nhất quán. Bản thân tôi hiện cũng đang làm giám định môn luật SHTT cho một trường đại học ở Scotland.

Học

Vì quyền tự do học thuật như vậy, việc giảng dạy ở nước Anh đa dạng về hình thức và nội dung. Có thầy cô cung cấp một tập tài liệu tóm tắt những kiến thức chính cho sinh viên. Có thầy cô cung cấp tài liệu trình chiếu trước đó, nhưng tôi cũng biết có đồng nghiệp chọn… không có gì. Thậm chí có người còn không sử dụng bất kì công cụ hỗ trợ nào khi lên giảng đường. Tuy nhiên, đầu mỗi kì, các môn học đều cho sinh viên danh sách tài liệu phải đọc (reading list) và những nội dung sẽ được giảng dạy. Một danh sách đọc thường bao gồm hai phần: bắt buộc và tự chọn. Phần bắt buộc, như tên gọi của nó, yêu cầu các bạn phải đọc để có được cái nhìn bao quát về bài giảng hôm đó. Mỗi môn sẽ có khoảng 50 trang cho mỗi tuần. Phần tự chọn là những bài đọc nâng cao về một chủ đề cụ thể.

Nói qua một chút về việc học luật ở nước Anh. Để có thể hành nghề luật sư ở đây (bao gồm luật sư tranh tụng – barrister, lẫn luật sư tư vấn – solicitor), một sinh viên phải hoàn thành bảy học phần bắt buộc như sau để nhận được “bằng luật đủ điều kiện” (a qualifying law degree).

  1. Luật hình sự.
  2. Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  3. Luật hợp đồng.
  4. Luật tài sản (bao gồm đất đai)
  5. Luật công bình và ủy thác.
  6. Luật hiến pháp và hành chính.
  7. Luật liên minh châu Âu.

Tất cả các môn học còn lại đều là tự chọn. Số lượng và nội dung các môn này tùy thuộc vào nguồn nhân lực của từng trường, nhưng đa phần các trường có từ 8 đến 10 môn tự chọn. Số lượng có thể nhiều hơn ở Oxford hay Cambridge .

Thông thường việc học luật ở các đại học ở Anh diễn ra như sau. Sau một buổi học ở giảng đường lớn kéo dài từ 1 đến 2 giờ tùy từng trường, các sinh viên sẽ được chia thành nhiều nhóm nhỏ hơn, tầm khoảng 10-13 bạn để tham gia các buổi thảo luận (seminar), nơi mà các bạn phải trả lời cho những câu hỏi mà giảng viên hoặc một gia sư (thường là nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ) đã đưa ra trước đó. Đây cũng là lúc mà bạn có thể trao đổi thêm những vấn đề chưa rõ. Một buổi thảo luận diễn ra sôi nổi hay không phụ thuộc rất nhiều vào người học và tôi thường nói rất rõ với sinh viên của mình rằng “Đây không phải là buổi giảng thứ hai” để đảm bảo các bạn có kì vọng hợp lý và chủ động hơn với buổi học.

Ở Oxford, số lượng sinh viên ít hơn so với các trường khác, nên không có nhiều buổi học ở giảng đường lớn mà thay vào đó là hình thức thảo luận (seminar). Sau đó các bạn sẽ có các buổi học riêng với gia sư (các buổi học này gọi là tutorial), có thể là giảng viên chính hoặc là nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ. Mỗi buổi gia sư không quá ba người ở bậc cử nhân và bốn người ở bậc thạc sĩ. Đối với mỗi môn, các bạn sẽ có ba lần học như vậy, mỗi lần các bạn phải nộp một bài viết 1500 từ (không tính điểm chính thức) cho gia sư.

Tôi thường sử dụng óc hài hước của mình để đối phó với sự im lặng “đáng sợ” trong các buổi học nhóm. Khi sinh viên quyết tâm “bất động” trước câu hỏi đã được gởi trước, tôi bông đùa “Không sao, vậy hôm nay chúng ta có thể ngồi thiền. Cô có thời gian mà!” Hay nếu một bạn trả lời “không biết” một cách yếu ớt cho những câu hỏi yêu cầu quan điểm cá nhân, tôi không dễ dàng từ bỏ: “Giả sử nếu em biết thì câu trả lời sẽ là gì”? Đa phần sau các câu đùa của tôi, cả lớp bật cười và các bạn sẽ cố gắng đưa ra ý kiến của mình.

Khi mà số lượng sinh viên ngày càng nhiều hơn nhưng số lượng việc làm không tăng tương ứng, tôi luôn nhắc nhở sinh viên về tầm quan trọng của óc phản biện và phân tích thông qua những buổi học nhóm. Có tư duy tốt chưa chắc giúp bạn có một công việc ngay, nhưng đây sẽ là vũ khí giúp bạn tìm được những hướng đi mới.

Một học kì ở Anh khá ngắn, kéo dài khoảng 9-10 tuần. Tùy vào từng trường mà các bạn có thể có một tuần không phải lên lớp mà chỉ dành riêng cho việc đọc (reading week). Riêng đại học Oxford thì chỉ có 8 tuần học. Chưa kể, các bạn sinh viên luật ở Oxford sẽ không thi hết môn ngay lập tức mà sẽ dồn tất cả vào năm cuối. Nghĩa là nếu bạn học luật hình sự ở năm 1, bạn phải giữ kiến thức trong đầu cho đến năm cuối cùng để thi hết môn. Đây không phải là một điều dễ chịu cho tất cả mọi người.

Đã không ít lần sinh viên than phiền với tôi vì lượng bài đọc quá nhiều hay đôi lúc các em hỏi thăm dò trước khi làm bài tập, “đây có phải là vụ việc về quyền tác giả/nhãn hiệu/sáng chế không cô?” Thay vì giải đáp trực tiếp, tôi trả lời rằng, “khi em đi làm, sẽ không có khách hàng nào đến và bảo với em rằng: Tôi đang có một vấn đề về quyền tác giả/nhãn hiệu/sáng chế hay bí mật kinh doanh cần được luật sư tư vấn, như cách mà các bài thi hay bài tập đã phân định rõ ràng mà các em đang làm đâu. Mà chính các em phải tự bóc tách vấn đề và xác định yêu cầu của khách hàng. Thậm chí nhiều lúc khách hàng cũng không gọi tên được vấn đề của mình, các em phải là người làm việc đó. Cũng sẽ không có khách hàng nào tới gặp em với một tập tài liệu trên tay (ý tôi chỉ đến các tài liệu tóm tắt môn học) và bảo rằng, vấn đề của tôi là vi phạm quyền tác giả, bạn hãy giở sách của giáo sư A trang 1120 để đọc và sau đó giải quyết cho tôi. À, tôi cũng đã liệt kê ra các vụ việc liên quan tới vấn đề này là abcxyz nên bạn có thể tham khảo, như cô đã viết sẵn cho các em đâu.”

Nếu bạn không phải là sinh viên bản địa?

Trong suốt 5 năm đi dạy ở 3 trường đại học, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên nước ngoài với những nền tảng cá nhân hết sức đa dạng. Một trong những trăn trở chung các bạn hay chia sẻ với tôi là mối liên hệ giữa cá nhân các bạn và một vài môn học. Mặc dù chuyên môn của tôi là luật SHTT, tôi đã có hai năm tham gia tổ bộ môn Luật liên minh châu Âu với tư cách gia sư. Trong những buổi học nhóm, nhiều bạn sinh viên Ấn Độ hay Trung Quốc đều khá hoang mang về môn học này vì các bạn không hiểu được tại sao mình phải học nó, điều này ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu kiến thức khá nhiều. Để giải quyết vấn đề, tôi phải dành một giờ ở văn phòng để làm công tác tư tưởng cho các bạn bằng cách chỉ ra ảnh hưởng của liên minh châu Âu thông qua các hiệp định thương mại song phương với quê hương của chính các bạn.

Việc làm luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các sinh viên bất kể gốc gác. Xin việc ở các công ty luật ở Anh luôn là một cuộc cạnh tranh hết sức khốc liệt. Các chương trình đào tạo hợp đồng (training contract) diễn ra từ năm 1, khi các bạn mới chân ướt chân ráo vào trường. Training contract là một trong những tiêu chí để một sinh viên trở thành luật sư. Thậm chí, nhiều công ty luật trong các mục tuyển dụng ứng viên cao cấp còn yêu cầu ứng viên phải từng có training contract ở các công ty luật hàng đầu danh giá của nước Anh. Nổi tiếng nhất là năm công ty luật thuộc về “vòng tròn ma thuật” (magic circle) có mức độ cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt. Đây là những công ty có uy tín và ưu tú bậc nhất trên thế giới.

Có được training contract sẽ giúp các bạn tiết kiệm chi phí vì chính các công ty luật sẽ trả tiền để các bạn học các khóa đào tạo nghề nghiệp luật sư, có khi lên đến hàng trăm triệu đồng. Tuy nhiên, trong thời gian học nghề, không phải công ty nào cũng cho phép các bạn đi làm. Nhiều công ty có thể hỗ trợ các bạn một khoản trợ cấp nho nhỏ (dao động từ £7000 – £10000) trong 1 năm. Tưởng nhiều, nhưng với chi phí đắt đỏ ở London, số tiền này chỉ đủ để các bạn trang trải chi phí ăn uống và đi lại. Nhiều bạn sinh viên kể với tôi là các em ấy phải đi làm thêm các công việc khác để có thể trả tiền nhà. Nhưng dù sao, bạn cũng may mắn hơn những người khác vì bạn biết rằng sẽ có một hợp đồng đào tạo kéo dài 2 năm đang chờ sau khi các bạn hoàn thành xong khóa đào tạo nghề.

Nếu không nhận được training contract, sinh viên bất kể là bản địa hay nước ngoài, đều phải tự bỏ tiền túi để đi học, nếu muốn trở thành luật sư. Rất nhiều bạn, đặc biệt là sinh viên nước ngoài, vì thiếu thông tin nên bỏ qua thời điểm nộp đơn training contract ở năm 1. Đương nhiên bạn luôn có thể nộp hồ sơ trong năm 2, năm 3 nhưng lúc này bạn phải cạnh tranh với khóa sinh viên mới. Chưa kể, thời gian xét duyệt hồ sơ và tham gia các vòng phỏng vấn luôn kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm. Quan trọng hơn, điểm năm 1 không tính vào kết quả chung nên cho phép bạn có nhiều thời gian hơn để tìm việc, trong khi các môn học trở nên nặng dần trong những năm cuối. Vì vậy, nộp đơn xin việc trong năm 1 luôn cho bạn ưu thế về thời gian và tâm lí.

Vì một học kì ở Anh khá ngắn, tôi luôn nhắc nhở các sinh viên của mình tập trung vào việc học. Mặc dù điểm năm 1 không tính, nhưng đây là cơ sở để các công ty luật tuyển dụng. Việc tham gia câu lạc bộ, đội nhóm là cần thiết, nhưng “các em đừng quên nhiệm vụ chính của các em là học. Các em có thể xin gia hạn, hoãn môn thi vì lý do gia đình, sức khỏe. Nhưng sẽ không ai chấp nhận lý do rằng em tham gia quá nhiều câu lạc bộ!” Tôi đã rất nhiều lần nhắc nhở sinh viên như vậy. Môi trường mới lạ luôn là con dao hai lưỡi. Đối với các bạn sinh viên chưa từng có thời gian sống ở Anh quốc, sự hấp dẫn càng tăng lên. Tôi đã từng chứng kiến một bạn thạc sĩ luật vì mải mê làm việc trong suốt 3 tháng hè nên không đầu tư thời gian cho luận văn cuối khóa. Kết quả là bài của bạn chỉ đủ điểm đậu mà thôi. Bạn cực kỳ thất vọng và xấu hổ vì ở nước nhà, bạn là một học sinh xuất sắc, luôn đạt điểm cao. Bạn tâm sự với tôi “em không biết phải làm sao đối mặt với thầy cô và bạn bè ở quê nhà!”

Bên cạnh đó, tập trung học mà không tham gia vào các hoạt động ngoại khóa hay các buổi sinh hoạt chuyên môn cũng là một điều thiệt thòi, nhất là với các bạn sinh viên nước ngoài, vốn dĩ đã gặp khó khăn về ngoại ngữ và thông tin. Sự cân bằng là chìa khóa cho vấn đề. Rất tiếc sẽ không có một công thức nào cho tất cả mọi người, mỗi người phải tìm ra điểm cân bằng của mình. Tôi hay nói với sinh viên nước ngoài của mình rằng, “nếu em xem đi du học là một khoản đầu tư thì ngoài tấm bằng ra, em còn muốn lãi thêm điều gì?”

Lời kết

Học luật chưa bao giờ là một điều dễ dàng. Có không ít bạn, là người bản địa, tìm đến tôi bày tỏ ý định… chuyển ngành bởi, sao mà học luật khó quá! Từng là một sinh viên, hơn nữa còn là người nước ngoài, tôi rất thấu hiểu những thách thức các bạn đang đối mặt. Tôi nhấn mạnh bản chất đặc biệt của việc học luật (đọc nhiều, trích dẫn dày đặc…) và sử dụng kinh nghiệm cá nhân khi còn đi học để hướng dẫn các bạn vượt qua những khó khăn và xây dựng một cách học chiến lược hơn. Tôi đã từng khuyên một em hãy cố gắng học hết một học kì xem sao, nếu lúc đó em vẫn cảm thấy không ổn thì chuyển ngành cũng không quá trễ. Kết quả là chính em sau này đã phàn nàn với tôi rằng tại sao điểm môn luật SHTT của em thấp như vậy! Vất vả vì phải giải thích cho em, nhưng tôi vui mừng vì em đã trở thành chiến binh trong môn học của mình.

Đối với các bạn sinh viên gốc Á, các bạn đang mang trong mình một lợi thế vô cùng to lớn khi châu Á ngày càng trở thành đối tác quan trọng trong các hiệp định thương mại. Các bạn nói thêm được một ngôn ngữ (ngoài tiếng Anh) và hiểu thêm một nền tảng pháp luật (ngoài nước Anh và liên minh châu Âu). Xoay chuyển góc nhìn, bất lợi sẽ trở thành lợi thế. Bạn sẽ tự tin hơn trong các hồ sơ tìm việc và trong các cuộc phỏng vấn. Đây không phải là một cái vỗ lưng an ủi suông mà là một thực tế tôi đã chứng kiến ở bạn bè và ngay cả trải nghiệm của bản thân mình.

Leave a Reply