Nhiếp ảnh và quyền tác giả – Khi cái đẹp nằm trong mắt thẩm phán

Nhiếp ảnh có phải là nghệ thuật

Ngày nay, nhiếp ảnh hiện diện trong toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Hầu hết mỗi người đều có một chiếc máy ảnh trong điện thoại di động cho phép chúng ta ghi lại gần như từng khoảng khắc. Tuy nhiên, trong phần lớn thế kỷ 19, nhiếp ảnh bị xem là một công dân hạng hai trong thế giới nghệ thuật vì tính nghệ thuật của loại hình này liên tục bị thách thức. Nhiều người cho rằng, so với các loại hình truyền thống như hội họa hoặc điêu khắc, nhiếp ảnh là một quá trình sao chép máy móc mà người thực hiện chỉ cần kỹ năng hoặc sự sáng tạo tối thiểu. Vì vậy, máy ảnh được nhìn nhận như một công cụ để ghi lại hình ảnh và nhiếp ảnh gia được xem là một kỹ thuật viên hơn là một nghệ sĩ.

Trong số ra năm 1901 của tạp chí Brush and Pencil, nghệ sĩ Henrietta Clopath đã nói lên tiếng lòng của nhiều nghệ sĩ và nhà phê bình nghệ thuật vào thời điểm đó:

“Đôi khi người ta bày tỏ nỗi sợ hãi rằng sẽ đến lúc nhiếp ảnh thay thế hoàn toàn nghệ thuật hội họa. Một số người dường như nghĩ rằng khi quy trình chụp ảnh màu đã được hoàn thiện và trở nên phổ biến, người họa sĩ sẽ không còn việc gì để làm nữa.”[1]

Ngoài ra, không giống như các bức tranh hoặc tác phẩm điêu khắc thường chỉ có một ấn bản, khả năng tái tạo dễ dàng của nhiếp ảnh thông qua in ấn đã làm xói mòn suy nghĩ rằng nghệ thuật là một thứ gì đó độc quyền và hiếm có. Chưa kể, nhiếp ảnh còn gắn liền với mục đích thương mại và sản xuất hàng loạt, điều này càng làm giảm vị thế của nó như một loại hình nghệ thuật.

Vì nhiếp ảnh được xem như một phương tiện khách quan, ghi lại những gì đang hiện diện hơn là một biểu hiện chủ quan của người nghệ sĩ, suy nghĩ này đã ảnh hưởng đáng kể đến vị trí của nhiếp ảnh trong quyền tác giả, nơi bảo hộ những tác phẩm có tính nguyên gốc (originality): tác phẩm mang dấu ấn cá nhân của người sáng tạo.

Thẩm phán Blackburn người Anh đã bày tỏ những nghi ngại về tính nguyên gốc của nhiếp ảnh như sau:

“Sự khác biệt giữa một bức tranh gốc và bản sao của nó là điều dễ hiểu, nhưng thật khó để nói một bức ảnh gốc có nghĩa là gì. Tất cả các bức ảnh đều là bản sao của một số đối tượng, chẳng hạn như một bức tranh hoặc một bức tượng.”[2]

Nhận định của thẩm phán Blackburn đã đánh một đòn chí mạng vào nhiếp ảnh: tất cả các bức ảnh đều là bản sao của một cái gì đó. Vì vậy tính nguyên gốc của loại hình này cần phải được hiểu theo một nghĩa khác. Khi nào một bức ảnh được xem là một tác phẩm nhiếp ảnh, có dấu ấn cá nhân của tác giả và khi nào một bức ảnh chỉ đơn thuần là một sự sao chép máy móc hai chiều của một đối tượng nghệ thuật khác? Câu hỏi này đã được đưa ra bàn luận từ lâu, nhưng câu trả lời vẫn chưa thôi gây tranh cãi.

Từ thế kỉ 19

Bản chất nghệ thuật của nhiếp ảnh lần đầu tiên được xem xét trong vụ việc Burrow-Giles Lithographic Co. v. Sarony vào năm 1884. Vụ việc liên quan đến Napoléon Sarony, một nhiếp ảnh gia chân dung, là người đã chụp bức ảnh nổi tiếng về tác giả Oscar Wilde, sau này được biết đến với tiêu đề “Oscar Wilde số 18”.

Bức ảnh Wilde số 18 và việc sử dụng trái phép nó trong các bưu thiếp. Nguồn: Sarony 18

Công ty Burrow-Giles Lithographic Co. đã tự ý sao chép bức ảnh của Sarony in lên các bưu thiếp với lập luận rằng bức chân dung của Oscar không đủ điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả. Trải qua nhiều phiên xét xử, vụ việc đưa lên Tòa Án Tối Cao Mỹ nơi nhận định rằng nhiếp ảnh khác với các loại hình nghệ thuật khác như điêu khắc, hội họa, vì nhiếp ảnh là sự tái tạo cơ học các đặc điểm hoặc đường nét vật lý của một vật thể. Một bức ảnh được bảo hộ phụ thuộc vào bằng chứng về tính nguyên bản, về việc liệu đây có phải là tác phẩm của trí tuệ cũng như thể hiện suy nghĩ và quan niệm của tác giả hay không.

Tòa Án Tối Cao công nhận Sarony là tác giả và bức ảnh chân dung nói trên là tác phẩm nghệ thuật vì “bằng cách đặt Oscar Wilde trước máy ảnh, lựa chọn và sắp xếp trang phục, màn cửa và các phụ kiện khác trong bức ảnh, sắp xếp đối tượng sao cho có những đường nét duyên dáng, sắp xếp và bố trí ánh sáng và bóng tối, gợi ý và gợi lên biểu cảm mong muốn, và từ cách bố trí, sắp xếp hoặc thể hiện đó, hoàn toàn do nguyên đơn thực hiện, anh ấy đã tạo ra bức ảnh phù hợp.”

Phán quyết Burrow-Giles Lithographic Co. v. Sarony đã nâng tầm nhiếp ảnh từ chỗ chỉ được coi là một sự tái tạo máy móc thành một nỗ lực nghệ thuật được công nhận. Quyết định này đã mở rộng ranh giới bảo hộ quyền tác giả thông qua giá trị nghệ thuật và tính độc đáo của tác phẩm chứ không phải là phương tiện thể hiện.

Cho đến thế kỉ 21

Tuy nhiên, vấn đề trên chưa ngã ngũ khi tính nghệ thuật của ảnh chân dung lại một lần nữa bị truy vấn trong vụ việc Painer,[3] liên quan đến việc cô bé người áo Natascha Kampusch bị bắt cóc vào năm 1998 khi cô mới 10 tuổi và trốn thoát vào năm 2006. Trước khi Natascha xuất hiện lần đầu trước công chúng khi 18 tuổi, các tờ báo không có một bức ảnh nào để giới thiệu cô với độc giả. Thay vì chờ đợi cuộc họp báo để chụp ảnh Natascha khi đã trưởng thành, một vài tờ báo của Đức và Áo đã đăng lại bức ảnh chân dung cũ của Natascha trước lúc mất tích được chụp bởi cô Painer, vốn là một nhiếp ảnh gia chân dung tự do. Chưa hết, các tờ báo này còn dựa vào bức ảnh cũ để tạo ra một bức ảnh mô phỏng diện mạo của Natascha khi cô bé 18 tuổi. Painer kiện các tờ báo nói trên vì hành vi vi phạm quyền tác giả đối với bức ảnh chân dung Natascha khi nhỏ và việc xuất bản những bức ảnh Natascha khi lớn.

Ảnh chân dung Natascha khi cô 10 tuổi. Nguồn: Getty

Vụ việc được đưa ra xem xét tại tòa án công lý liên minh châu Âu (CJEU), nơi trả lời câu hỏi: liệu phạm vi quyền tác giả của ảnh chân dung có “hẹp” hơn so với các tác phẩm khác hay không? Các tờ báo là bị đơn trong vụ kiện cho rằng phạm vi bảo hộ dành cho một bức ảnh như vậy bị hạn chế, hoặc thậm chí không tồn tại, vì tự do tạo hình của nhiếp ảnh gia thật sự khá nhỏ đối với ảnh chân dung.

Tuy nhiên, CJEU đã đứng về các nhiếp ảnh gia khi kết luận rằng:

“đối với một bức ảnh chân dung, nhiếp ảnh gia có thể đưa ra những lựa chọn tự do và sáng tạo theo nhiều cách và tại nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình sản xuất. Trong giai đoạn chuẩn bị, người chụp có thể chọn hậu cảnh, tư thế của đối tượng và ánh sáng. Khi chụp ảnh chân dung, anh ấy có thể chọn khung, góc nhìn và bầu không khí được tạo ra. Cuối cùng, khi chọn ảnh chụp nhanh, nhiếp ảnh gia có thể chọn từ nhiều kỹ thuật đang phát triển mà anh ta muốn áp dụng hoặc, nếu thích hợp, sử dụng phần mềm máy tính.  Bằng cách đưa ra những lựa chọn đa dạng đó, tác giả của một bức ảnh chân dung có thể tạo dấu ấn cho tác phẩm được tạo ra bằng ‘điểm nhấn cá nhân’ của mình. Do đó, đối với một bức ảnh chân dung, quyền tự do dành cho tác giả để thực hiện khả năng sáng tạo của mình sẽ không nhất thiết nhỏ hoặc thậm chí không tồn tại.”[4]

CJEU C-145/10 – Painer

Với kết luận nói trên, Tòa khẳng định, quyền bảo hộ đối với một bức ảnh chân dung không thể thấp hơn quyền bảo hộ đối với các tác phẩm khác, kể cả các tác phẩm nhiếp ảnh khác.

Cái đẹp trong mắt kẻ si tình

Phán quyết của CJEU vào năm 2011 vẫn không thể củng cố thêm vị thế vốn mong manh của nhiếp ảnh trong quyền tác giả. Năm 2019, tòa án Rome tuyên bố rằng một bức ảnh chụp hai thẩm phán Giovanni Falcone và Paolo Borsellino trong một hội nghị tại Palermo (Ý) vào tháng 3/1992 bởi nhiếp ảnh gia người Ý, ông Tony Gentile, không phải là một tác phẩm nhiếp ảnh (photographic work).[5] Đến năm 1992, Falcone và Borsellino được biết đến như những người thập tự chinh chống lại tội phạm có tổ chức ở Ý. Tình bạn sâu sắc của cả hai cũng rất nổi tiếng. Chỉ trong vòng vài tháng sau khi bức ảnh nói trên được chụp, cả hai người đàn ông đã bị ám sát bởi các tổ chức mafia. Gentile kiện hãng truyền thông Ý Rai sử dụng bức ảnh này trong hoạt động thông tin thời sự và các chiến dịch về nâng cao pháp quyền nhưng không xin phép cũng như trả thù lao cho Gentile.

I magistrati Giovanni Falcone e Paolo Borsellino, Palermo 27 marzo 1992. © Tony Gentile

Nguồn: https://lavocedinewyork.com/en/2020/12/11/tony-gentile-and-the-photo-testimonials-of-a-collective-memory-for-justice/

Tương tự như luật bản quyền của các quốc gia khác, một tác phẩm (work) chỉ được bảo hộ quyền tác giả ở Ý nếu nó có một mức độ sáng tạo nhất định. Tòa án Rome mặc dù ám chỉ rằng bối cảnh chính trị xã hội và việc ám sát sau đó đã khiến bức ảnh trở nên đặc biệt, nhưng nó không đủ điều kiện để được xem là một tác phẩm nghệ thuật. Bản án mô tả đây “chắc chắn là một bức ảnh đẹp, tượng trưng, ​​cảm động” nhưng không có mức độ sáng tạo nhất định mà chỉ đơn giản là nụ cười và phút thư giãn giữa hai thẩm phán đồng nghiệp trong một hội nghị mà nhiếp ảnh gia vô tình bắt lấy. Theo tòa án, ông Gentile khi bấm máy đã không chủ đích tạo ra một mục tiêu mang giá trị nghệ thuật và sáng tạo. Vì vậy, tác phẩm nói trên không phải là tác phẩm nhiếp ảnh để được bảo hộ quyền tác giả.

Một nhà bình luận người Ý bất bình với phán quyết tòa án Rome khi anh cho rằng đánh giá liệu một bức ảnh có phải là một “tác phẩm nghệ thuật” (work of art) chứ không phải là một “tác phẩm của tác giả” (work of author) là một bài tập vô ích bởi vì “nghệ thuật”, giống như “cái đẹp” hay “sự sáng tạo”, nằm trong mắt của kẻ si tình và do đó rất khó để đưa ra một định nghĩa thỏa đáng.[6] Vì vậy, để kết luận một bức ảnh là một “tác phẩm nhiếp ảnh” hay một “bức ảnh đơn giản’ nên chỉ xem xét công việc phức tạp được thực hiện bởi các nhiếp ảnh gia thay vì đánh giá tính nghệ thuật của nó.

Kết luận

Mặc dù nghệ thuật mang tính chủ quan và mỗi người đều có một định nghĩa khác nhau về điều này, việc xác định tính nguyên gốc của tác phẩm trong quyền tác giả đã khiến các thẩm phán bất đắc dĩ khoác trên mình chiếc áo “nhà phê bình nghệ thuật”. Có vẻ như đối với các loại hình nghệ thuật có sự trợ giúp của máy móc, việc đặt ra một ngưỡng sáng tạo cao hơn để trao quyền tác giả là điều không thể tránh khỏi. Điều này mặc dù tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình nghệ thuật, ở chừng mực nào đó, nó tôn vinh những tác phẩm được tạo ra gần như hoàn toàn từ sự lao động của con người. Có lẽ đây cũng là xu hướng của quyền tác giả trong tương lai khi đối mặt với câu hỏi đâu là dấu ấn cá nhân của người sáng tạo đối với những sản phẩm có sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo (AI).

Bài viết được đăng trên tờ Thời báo kinh tế Sài Gòn số 27-2023 và đăng online với tiêu đề Khi “cái đẹp” nằm trong mắt thẩm phán.


[1] Henrietta Clopath, “Genuine Art versus Mechanism” (1901) 7(6) Brush and Pencil, trang 333.

[2] Graves’ Case (1869) LR 4 QB 715.

[3] Case C-145/10

[4] Case C-145/10, đoạn 90 – 93.

[5] Matteo Mancinella, “Simple photograph’ or work of art? Well-known image of Judges Falcone and Borsellino deemed insufficiently creative for protection under Article 2 of the Italian Copyright Act” (2020) 15(3) Journal of Intellectual Property Law & Practice 158.

[6] Matteo Mancinella, “Simple photograph’ or work of art? Well-known image of Judges Falcone and Borsellino deemed insufficiently creative for protection under Article 2 of the Italian Copyright Act” (2020) 15(3) Journal of Intellectual Property Law & Practice 159.

Leave a Reply