Bảo hộ sáng chế tạo ra bởi AI?
Không thể phủ nhận là trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) đang hiện diện khắp nơi trong đời sống chúng ta. Vì vậy những tranh luận gần đây về việc chúng ta có nên cung cấp bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) cho những sáng chế hay tác phẩm tạo ra bởi AI trở nên vô cùng nóng hổi. Như việc AI giúp hoàn thành bản nhạc của Beethoven (link) là một ví dụ như vậy.
Tháng 10 năm 2021, chính phủ Anh ra kêu gọi tham vấn từ công chúng về vấn đề này. Đây là lần tham vấn thứ 2 của chính phủ Anh về bảo hộ SHTT và AI. Tuy nhiên nếu lần tham vấn trước nước Anh đặt ra rất nhiều câu hỏi trong mọi hình thức bảo hộ SHTT thì lần này, chỉ tập trung vào hai mảng quyền tác giả (copyrights) và sáng chế (patent). Câu hỏi về patent rất đơn giản, chúng ta có nên bảo hộ những sáng chế tạo ra bởi AI hay không? Nếu có thì chúng ta nên bảo hộ như thế nào (Should we protect AI-devised inventions? If yes, how should we protect them?)
Trước khi tôi đưa ra những nhận định về vấn đề này, có một case study rất thú vị về AI và sáng chế. Tiến sĩ Stephen Thaler và cộng sự của mình nộp đơn cấp sáng chế ở rất nhiều nước, trong đó Stephen tuyên bố một hệ thống AI tên là DABUS, chứ không phải là một con người cụ thể, là nhà phát minh của sáng chế xin được cấp bằng. Đáng chú ý là DABUS được tạo ra bởi Stephen. Trong khi các tòa án của Anh và Hoa Kỳ bác bỏ yêu cầu của Thaler, thì toà Úc đã đứng về phía ông ta. Lý do toà ở Anh và Mỹ đưa ra khá giống nhau rằng AI không phải là con người nên không được công nhận là nhà phát minh. Tuy nhiên toà Úc đưa ra ba lý do cho việc công nhận của mình: Đầu tiên, một nhà phát minh (inventor) là một danh từ đại diện (agent noun – Inventor giống như từ computer để chỉ máy tính, xuất phát từ động từ compute: tính toán); một tác nhân như vậy có thể là một người hoặc một thứ có thể phát minh ra (cái gì đó). Thứ hai, việc công nhận như vậy phản ánh thực tế rằng, có nhiều phát minh có thể được cấp bằng sáng chế mà không thể lập luận rằng con người là nhà phát minh. Thứ ba, không có điều gì trong Đạo luật Sáng chế của Úc đưa ra kết luận ngược lại. Phán quyết của Úc được xem là một quyết định mang tính lịch sử.
Đơn xin cấp bằng sáng chế của Thaler hiện đang chờ xử lý ở Brazil, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ, Israel, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc và Thụy Sĩ. Điều này đã đặt ra một câu hỏi quan trọng là liệu đã đến lúc công nhận quyền phát minh của AI như là một con người? Bài đăng này gợi ý câu trả lời KHÔNG vì lý do đạo đức và pháp lý.
Hiện tại, hầu hết luật quốc gia và quốc tế đều không công nhận AI là một nhà phát minh. Quan điểm chủ đạo là quyền sáng chế chỉ có thể được cấp cho con người chứ không phải máy móc. Việc được xem là nhà phát minh sẽ đi kèm với các trách nhiệm pháp lý, thực thi và kiện tụng mà chỉ một con người mới có thể thực hiện được. Chẳng hạn như theo Đạo luật Sáng chế của Anh 1977, các nhà phát minh được quyền bồi thường từ người sử dụng lao động của họ trong một số trường hợp nhất định. Vì vậy, việc chấp nhận quyền phát minh của AI sẽ đi quá xa vào thời điểm này vì chúng ta sẽ không coi AI như một công cụ mà còn là những thể nhân hợp pháp và tự nhiên. Điều đó sẽ dẫn đến một sự thay đổi cực kỳ hệ trọng về khái niệm về con người và mối tương quan giữa công nghệ và xã hội. Điều đó sẽ tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan về mặt đạo đức.
Ngay cả việc trao cho AI một tình trạng pháp lý đặc biệt (chẳng hạn như có luật riêng cho AI) vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần cân nhắc. AI có thể hành động dựa trên tính cách hợp pháp của chúng không? AI có thể trở thành các bên tham gia hợp đồng và từ đó thực thi các quyền và nghĩa vụ của mình không? AI có thể chịu trách nhiệm “cá nhân” và bị kiện không? Làm thế nào một hệ thống AI hỗ trợ trách nhiệm pháp lý như vậy, và điều này có thể được thực hiện như thế nào? Nó có nên được thưởng cho công việc của nó không? Chúng ta có nên đánh thuế thu nhập của nó nếu sáng chế của AI tạo ra đủ doanh thu cho các mục đích thuế không?
Mặc dù bài viết này sẽ không nêu chi tiết về định nghĩa của AI, nhưng cần phải đề cập ngắn gọn đến dạng AI tiên tiến nhất – trí thông minh tự trị, có nghĩa là những AI dạng này có quyền hoạt động độc lập mà không cần sự can thiệp của con người. Với khả năng tự học, hành xử tự chủ và đưa ra quyết định cá nhân, AI có thể gây ra những tác động ngoài ý muốn làm tổn hại đến con người hoặc những vật thể khác. Có những ví dụ về các vụ va chạm do ô tô tự lái gây ra và các chatbot trở nên phân biệt chủng tộc và có lời nói không phù hợp về mặt đạo đức. Trong những tình huống đó, các nhà sản xuất AI đã hành động để khắc phục những hậu quả ngoài mong muốn. Điều này phù hợp với các khuôn khổ pháp lý hiện hành. Điều 12 của Công ước Liên hợp quốc về sử dụng thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế quy định rằng một người (dù tự nhiên hay hợp pháp) phải chịu trách nhiệm cuối cùng về bất kỳ thông tin nào do máy tạo ra. Theo cách hiểu này, một chủ thể khi sử dụng AI như một công cụ, dù có lỗi hay không thì cũng phải bồi thường thiệt hại do AI gây ra. Theo Chỉ thị 85/374/EEC của Hội đồng EU, nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do sản phẩm của mình bị lỗi. Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng của Vương quốc Anh áp đặt trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt đối với nhà sản xuất đối với thiệt hại do sản phẩm bị lỗi gây ra.
Trong khi luật pháp hiện hành ở các lĩnh vực khác dường như không chấp nhận AI là con người, liệu chúng ta có sẵn sàng làm như vậy trong luật SHTT hay chưa?
Bạn có thể xem bản tiếng Anh của blog này tại đây.